TÀ
GIÁO MORMON
Đối với nhiều
người, Mormon là một giáo phái có nhiều giáo lý khác với Cơ đốc giáo của Kinh
Thánh. Trong bài này, chúng ta sẽ xem xét những giáo lý của giáo phái Mormon,
và so sánh với những điều dạy dỗ trong Kinh Thánh. Khi làm như vậy, chúng ta sẽ
thấy rằng có những khác biệt rất lớn giữa Tin Lành của Chúa Giê-xu với giáo
phái Mormon.
Đầu tiên chúng ta sẽ lược sơ
qua lịch sử của giáo phái Mormon.
I.
LỊCH SỬ.
Joseph
Smith, người sáng lập giáo phái Mormon, sinh năm 1805 ở Vermont, Hoa Kỳ. Năm
1820, khi lên 14 tuổi, vì không biết hệ phái Tin Lành nào là đúng trong số rất
nhiều hệ phái hiện có, nên Joseph Smith đi vào trong rừng cầu nguyện. Sau nầy,
ông kể rằng, ở đó ông nhận được sự khải thị của Đức Chúa Cha và của Đức Chúa Giê-xu
bảo ông đừng theo bất kỳ một hệ phái nào hiện có, vì tất cả đều lầm lạc, tín điều
của họ đều đáng kinh tởm, và những người xưng nhận các tín điều đó đều bại hoại
cả. Trái lại, theo khải thị này, Joseph Smith được phong chức để tái lập Hội
thánh chân chính.
Năm
1823, Joseph Smith cho rằng ông nhận được một khải thị nữa. Lần này là từ một
thiên sứ có tên là Moroni (con trai của Mormon, và là nhà lãnh đạo của người
Nephite được ông xem là đã sống ở đất Mỹ từ mấy trăm năm về trước), bảo ông ta
tìm những bảng vàng chứa đựng Sách Mormon, do chính Mormon viết vào năm 420 SC.
Cho
đến ít nhất là năm 1826, Joseph Smith đã dùng một dạng ma thuật huyền bí với một “hòn
đá thần” (“hòn đá thấy được”) để tìm ra những kho tàng chôn giấu. Tuy
nhiên luật pháp Hoa kỳ không cho phép làm những chuyện như thế, và ngày 26
tháng 3 năm 1826 Joseph Smith bị bắt và kết án là “phù thủy dùng gương
để đoán hậu vận” và cũng là một kẻ buông tuồng (theo luật pháp, một kẻ
buông tuồng là kẻ tự cho mình có khả năng xem chỉ tay, bói toán và khám phá ra
những vật kín giấu). Tuy nhiên, vì đây chỉ là vi phạm lần đầu, nên ông không bị
hình phạt nào.
Vào
khoảng thời gian đó, ông bắt đầu từ bỏ công việc tìm kiếm kho tàng và xoay ra
dùng viên đá thần của mình cho mục đích tôn giáo. Nhờ một viên đá thần mà ông bảo
là đã đào lên từ một cái giếng sâu gần 8 mét, ông đã tìm thấy được những bảng
vàng chứa đựng Sách Mormon vào ngày 22 tháng 9 năm 1827. Với sự giúp đỡ của
thiên sứ Moroni và những cặp kính vàng đặc biệt, ông đã dịch được sang tiếng
Anh Sách Mormon chép trong bảng vàng, được viết bằng một thứ chữ tượng hình Ai
Cập (mà Joseph Smith gọi là “chữ Ai Cập cải cách”, dẫu rằng
các học giả thấy nó không giống gì với chữ Ai Cập cả). Quá trình dịch thuật
hoàn tất năm 1830, là năm Sách Mormon được công bố. Tuy nhiên trước đó, các bảng
vàng và các cặp kính vàng dùng để dịch đã biến mất.
Năm
1844, sau vụ phá hoại bất hợp pháp một nhà in dùng để in các ấn phẩm chống lại
Mormon, Joseph Smith bị bắt và tống giam. Tuy nhiên khi ông đang ở trong tù, một
đám đông đã xâm nhập, và một cuộc đấu súng diễn ra. Dù đã cố gắng tự vệ bằng một
khẩu súng lục, ông vẫn bị đám đông bắn chết. Người kế vị ông làm Hội Trưởng
Giáo hội Mormon (hay “Hội Thánh Đức Chúa Giê-xu Christ Của Các Thánh Đồ
Ngày Sau Rốt”, như danh tự xưng của họ) là Brigham Young.
Năm
1847, Brigham Young dẫn tín đồ Mormon đến thành phố Salt Lake, bang Utah, và từ
đó thành phố này trở thành trụ sở của giáo phái Mormon.
Ngày nay, giáo phái Mormon
có 9 triệu tín hữu, và khoảng 50 ngàn giáo sĩ.
II.
HỘI TRƯỞNG GIÁO HỘI MORMON.
Brigham
Young, hội trưởng thứ hai của giáo phái Mormon, tự xưng là đã nhận sự chân truyền
từ người tiền nhiệm là Joseph Smith. Mỗi hội trưởng của giáo phái Mormon sau
này cũng đều tuyên bố mình là “vô ngộ” (không bao giờ sai lầm).
Giáo lý này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng khi xét đến quan điểm của Brigham
Young về A-đam và Đức Chúa Trời (xem phần 6).
III.
SỰ SAI LẦM CỦA GIÁO PHÁI MORMON.
Theo
sự dạy dỗ của giáo phái Mormon, ngay sau khi các sứ đồ qua đời thì Hội thánh đầu
tiên đã bắt đầu bội đạo. Vì đã xa rời lẽ thật, giáo hội bại hoại này đã tiến
hành hủy diệt hết mọi dấu vết bội đạo của họ. (Phải thế thôi, bởi vì bằng chứng
duy nhất cho một sự bội đạo rộng khắp như thế chỉ nằm trong sự dạy dỗ của
Joseph Smith gần 1800 năm sau khi xảy ra cái sự kiện mà ông gọi là bội đạo đó!)
Vì
lẽ đó nên giáo phái Mormon tin rằng, vì Hội thánh đích thực của Chúa Giê-xu
không còn tồn tại nữa, và Tin Lành đích thực đã thất truyền, cho nên chỉ có qua
một khải thị mới thì lẽ thật mới được phục hồi. Trong thời kỳ Cải Chánh, có nhiều
cố gắng nhằm phục hưng Hội thánh, nhưng các nỗ lực đó đều không thành công vì
lúc đó người ta không nhận được quyền của Đức Chúa Trời để làm. Chỉ có qua
Joseph Smith và giáo phái Mormon thì, theo họ, mới có thẩm quyền mới và sự khải
thị lẽ thật, hầu cho Tin Lành đích thực và Hội Thánh chân chính mới có thể được
phục hồi.
Một ví dụ về giáo lý mà giáo
phái Mormon xem là sản phẩm của Giáo hội bại hoại, đó là tín lý Ba Ngôi. Tín lý
Ba Ngôi mâu thuẫn với niềm tin của giáo phái Mormon, cho nên họ bảo đó là một
trong những sự xuyên tạc do Giáo hội bội đạo đầu tiên đưa vào.
IV.
KINH THÁNH.
Giáo
phái Mormon tin có bốn quyển kinh là Thánh thư có thần quyền. Đầu tiên là Kinh
Thánh (nhưng chỉ là bản King James Anh ngữ, được dịch năm 1611 SC). Ba quyển
kia là Sách Mormon, Giáo Lý và Giao Ước, và Ngọc Trai Vô Giá. Dù cũng đáng
khích lệ khi Kinh Thánh được đưa vào danh sách Thánh thư, nhưng xem kỹ thì thấy
rằng Kinh Thánh bị đặt thấp hơn Sách Mormon. Trong quyển Ngọc Trai Vô Giá do
Joseph Smith viết, các giáo điều chủ yếu của giáo phái Mormon được trình bày đủ
cả. Giáo điều thứ tám là:
“Chúng
tôi tin Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời miễn là phải được dịch đúng; chúng
tôi cũng tin rằng Sách Mormon là Lời của Đức Chúa Trời”.
Câu “miễn
là phải được dịch đúng” có nghĩa là họ có quyền muốn nhận, muốn bỏ phần
nào trong Kinh Thánh cũng được - vì họ có thể bảo rằng những phần nào đi ngược
với giáo lý của họ là những phần dịch sai. Trên thực tế, việc làm này tước bỏ hết
mọi thần quyền của Kinh Thánh và biến Kinh Thánh ra vô dụng. Điều đó cũng mâu
thuẫn với chính Kinh Thánh:
“Cả
Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn” (II Ti-mô-thê 3:16).
V.
SÁCH MORMON.
Trái
với Kinh Thánh, giáo phái Mormon không hề nghi ngờ Sách Mormon. Họ cho rằng bản
dịch của sách này là từ những bảng vàng mà Joseph Smith đã tìm thấy, và ông được
Đức Chúa Trời linh cảm, do đó không hề sai lầm. Họ xem đó như “một lời
chứng khác” - Kinh Thánh là lịch sử về cách xử sự của Đức Chúa Trời với
loài người ở phương Đông (ở Y-sơ-ra-ên), sách Mormon là lịch sử về cách xử sự của
Đức Chúa Trời (trong khoảng thời gian từ 600 TC đến 400 SC) với hai nền văn
minh cổ, mà theo họ, là ở châu Mỹ. Sách Mormon chứa đựng chuyện kể cách Chúa
Giê-xu đến rao giảng Tin Lành tại châu Mỹ cho một trong hai nhóm này - người
Nephite. Chúa đã thiết lập lễ báp tem, sự thờ phượng, thông công, chức tế lễ,
và các nghi thức thần bí khác.
Dù
giáo phái Mormon bảo rằng Đức Chúa Trời đã linh cảm cho bản dịch Sách Mormon,
nhưng nếu xem xét sách này thì sẽ thấy nhiều vấn đề khiến ta không thể tin lời
khẳng định đó.
1.
Từ lần xuất bản đầu tiên đến nay đã có 4000 chỗ hiệu đính trong Sách Mormon. Nếu
Đức Chúa Trời linh cảm cho bản dịch của sách ấy thì đâu cần phải hiệu đính gì nữa.
Nhiều lỗi được hiệu đính là lỗi văn phạm (họ cho ta thấy xem ra Đức Chúa Trời
không rành văn phạm tiếng Anh!), nhưng có những lỗi khác nghiêm trọng hơn nhiều.
Ví dụ, ấn bản năm 1830 chép một số đoạn nói về “Đức Chúa Trời”, nhưng
các ấn bản sau lại sửa là “Con Đức Chúa Trời”. Ví dụ, “Và
thiên sứ phán cùng tôi, Này là Chiên Con của Đức Chúa Trời, tức là Cha Đời Đời!” bị
đổi thành “Và thiên sứ phán cùng tôi, Này là Chiên Con của Đức Chúa Trời,
tức là Con của Cha Đời Đời!” (1 Nephi 11:21, Sách Mormon).
2.
Bản dịch ấy có hơn 1000 lần trích dẫn bản Kinh Thánh King James năm 1611 (chiếm
một phần tám nội dung của Sách Mormon), và những đoạn trích trong Sách Tin Kính
của Hội Thánh Giám Lý, cùng một câu trích tác phẩm của Shakespeare. Thế nhưng
Sách Mormon được xem là đã được viết hơn một ngàn năm trước những nguồn trích dẫn
trên (tức vào năm 400 trước CN), như thế, đáng lý Sách Mormon phải không chịu ảnh
hưởng gì bởi các sách kia mới phải.
3.
Bản King James năm 1611 chứa nhiều lỗi dịch sai mà ngày nay đã được sửa lại.
Tuy nhiên trong tất cả những trích dẫn trên, Sách Mormon đều theo đúng nguyên bản
của bản dịch King James, và do đó giữ lại những chỗ sai trên.
4.
Bản dịch Sách Mormon chứa đựng nhiều tên như Ti-mô-thê, Giô-na, và Lachoneus,
và cũng dùng những từ “An-pha” (chữ cái đầu tiên trong mẫu tự
Hy Lạp) và “Ô-mê-ga” (chữ cái cuối cùng trong mẫu tự Hy Lạp).
Thế nhưng Sách Mormon được xem là chuyện kể về Châu Mỹ chớ đâu phải về thế giới
Hy lạp. Đáng lý vào thời đó, ở Mỹ không có một ảnh hưởng tiếng Hy Lạp nào mới
phải.
VI.
ĐỨC CHÚA TRỜI.
1.
MỘT HAY NHIỀU ĐỨC CHÚA TRỜI?
Lời
của Đức Chúa Trời trong Ê-sai 45:5 tuyên bố: “Ta là Đức Giê-hô-va,
không có Đấng nào khác, ngoài Ta không có Đức Chúa Trời nào khác nữa”. Câu
này và nhiều câu Kinh Thánh khác đều dạy rằng chỉ có một Đức Chúa Trời. Thế
nhưng giáo phái Mormon dạy rằng có nhiều Đức Chúa Trời.
Thật
ra, niềm tin của giáo phái Mormon cũng thay đổi theo thời gian. Ban đầu, họ dạy
rằng chỉ có một Đức Chúa Trời. Ví dụ Alma 11:26-28 trong Sách Mormon chép:
“Và
Zeezrom nói với người rằng: Ngươi nói có một Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật.
Và Amulek nói: Phải, có một Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật. Và Zeezrom lại
nói: Có nhiều hơn một Đức Chúa Trời không? Và người đáp rằng, không”.
Đến năm 1839 bắt đầu có biến
chuyển trong quan điểm của Joseph Smith về Đức Chúa Trời. Trong Giáo Lý và Giao
Ước 121:26,28, Joseph nói lên một điều cho thấy sắp có một sự thay đổi trong
giáo lý:
“Đức
Chúa Trời sẽ ban cho anh em sự khôn ngoan bởi Thánh Linh Ngài... Sẽ đến lúc
không còn có gì che giấu nữa, sự thật là có một hay nhiều Đức Chúa Trời, điều
đó sẽ được bày tỏ ra”.
Năm
1942, sự loan báo thay đổi giáo lý này cuối cùng đã xảy ra. Trong Quyển Ngọc
Trai Vô Giá ta thấy có đoạn như sau:
“Và
đất sau khi được thành lập là trống không và hoang vắng... và Linh của các Chúa
Trời bay vần trên mặt nước. Và các ngài (các Đức Chúa Trời) phán: Hãy có ánh
sáng” (Sách Abraham 4:2-3).
Thế
là sau 12 năm, Joseph Smith đã đi từ độc thần giáo sang đa thần giáo.
2.
ĐỨC CHÚA TRỜI XƯA CŨNG LÀ NGƯỜI.
Tiếp theo giáo lý đa thần,
bây giờ giáo phái Mormon lại tin rằng Đức Chúa Trời không phải luôn là Đức Chúa
Trời như ngày nay chúng ta biết Ngài. Sau đây là một đoạn trích từ Sách Abraham
trong Ngọc Trai Vô Giá:
“Nếu
Chúa Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời, và Giăng khám phá ra rằng Đức Chúa Trời,
Cha của Chúa Giê-xu Christ, thì ta có thể nghĩ rằng Ngài cũng có một Cha nữa.”
Điều
đó cho thấy Joseph Smith tin rằng không những có nhiều Đức Chúa Trời, mà Chúa
Cha còn có cha, và cha Ngài lại có cha nữa, v.v… Như vậy sẽ có một chuỗi vô tận
những Đức Chúa Trời, đấng này sinh ra đấng kia.
Lorenzo
Snow, một trong các Hội Trưởng Giáo hội Mormon từng nói:“Con người ngày nay
ra sao, Đức Chúa Trời ngày xưa cũng như vậy”.
Và
Sách Giáo Lý và Giao Ước 130:22 tuyên bố:“Đức Cha có một thân thể bằng xương
bằng thịt có thể rờ được như con người vậy”.
Như
vậy Đức Chúa Trời của giáo phái Mormon ngày xưa từng là một con người sống ở một
hành tinh tương tự như trái đất - thật ra đến bây giờ ngài vẫn còn có thân thể
xác thịt. Bằng cách sống vâng phục lẽ thật, và sau nhiều cố gắng bản thân, cuối
cùng Ngài đã đạt được thân vị Đức Chúa Trời, và có được quyền năng Ngài chưa từng
có bao giờ.
3.
A-ĐAM/ĐỨC CHÚA TRỜI.
Không những Đức Chúa Trời từng
là con người, mà theo Brigham Young, vị Hội Trưởng thứ hai của giáo phái
Mormon, thì Ngài chính là A-đam chớ không ai khác. Sau đây là lời dạy của
Brigham Young:
“Khi
Cha chúng ta là A-đam vào vườn Ê-đen, Ngài đến đó với một thân thể thiêng
liêng, và mang theo Ê-va, một trong các người vợ của mình. Ngài giúp tạo dựng
và tổ chức thế giới này. Ngài cũng là Mi-ca-ên, thiên sứ trưởng, Đấng Thượng Cổ
mà các người thánh đã từng nói đến – Ngài là Cha và Đức Chúa Trời chúng ta, và
Đức Chúa Trời duy nhất mà chúng ta phải khai trình”.
Brigham
Young dạy tín lý này nhiều lần, và nó được đưa vào nghi thức thờ phượng trong đền
thờ Mormon. Suốt ba đời hội trưởng kế tiếp nó vẫn được duy trì trong nghi lễ thờ
phượng. Nhưng chính vì tín lý này bị dư luận bên ngoài lên án quá nhiều, nên cuối
cùng nó bị loại ra khỏi nghi lễ thờ phượng trong đền thờ Mormon vào đầu thế kỷ
20.
Rõ
ràng là giáo lý Mormon về Đức Chúa Trời đã quá xa rời chân lý của Kinh Thánh. Đối
với giáo phái Mormon, Đức Chúa Trời chỉ là một trong vô vàn thế hệ Chúa Trời.
Ngài không phải luôn luôn là Đức Chúa Trời, nhưng phải tu luyện khó nhọc mới đạt
được thần tánh của mình. Và sau khi dựng nên thế gian (với sự giúp đỡ của các Đức
Chúa Trời khác), Ngài xuống trần làm A-đam, với một trong những người vợ từ thế
giới thần linh. Đó là Đức Chúa Trời mà giáo phái Mormon tin thờ.
Thế
nhưng không có một sự dạy dỗ nào như thế được tìm thấy trong Kinh Thánh.
VII.
CHÚA GIÊ-XU.
Dù
Kinh Thánh tuyên bố rõ ràng rằng Chúa Giê-xu là Con Một của Đức Chúa Trời,
nhưng giáo phái Mormon tin khác hẳn.
“Vì
Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ
ai tin Con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Giăng 3:16).
Họ
dạy rằng trước khi thế gian được dựng nên, Chúa Giê-xu là con trưởng trong số
nhiều con cái thần linh của Đức Chúa Trời. Các người con thần linh kia gồm có cả
Satan và các linh hồn của những người sau này sẽ xuống ở thế gian - trong đó có
cả chúng ta.
Chúa
Giê-xu không những là con thần linh của Đức Chúa Trời, mà Ngài còn là con thuộc
thể của Đức Chúa Trời (tức là A-đam - xem ở trên). Điều này thể hiện qua lời dạy
của Brigham Young:
“Khi trinh nữ Mari thụ thai
con trẻ Giê-xu... Ngài không phải sinh bởi Thánh Linh. Và Cha của Ngài là ai?
Đó là con người đầu tiên của dòng dõi loài người... Chúa Giê-xu, người anh cả của
chúng ta, đã được sinh ra trong xác thịt bởi nhân vật đã từng có mặt ở vườn
E-đen”.
Câu
trích dẫn này cũng cho thấy một sự dạy dỗ khác của giáo lý Mormon về Chúa
Giê-xu: Ngài là con thuộc thể của Đức Chúa Trời (A-đam) và Mari. Ngài không
sanh bởi Thánh Linh. Đây lại là một sự trái ngược hoàn toàn với sự dạy dỗ của
Kinh Thánh. Ma-thi-ơ 1:18 chép: “Khi Ma-ri, mẹ Ngài, đã hứa gả cho
Giô-sép, song chưa hề ăn ở cùng nhau, thì người đã chịu thai bởi Đức Thánh
Linh”.
Họ cũng dạy rằng Chúa Giê-xu
đã từng lấy vợ khi còn ở thế gian. Tiệc cưới Ca-na (Giăng 2) được xem là tiệc
cưới của chính Chúa Giê-xu. Ngài lấy Ma-ri, Ma-thê, và cả Ma-ri Ma-đơ-len, do
đó Ngài là người đa thê. Dĩ nhiên, Kinh Thánh không hề dạy như vậy, nhưng đó là
điều họ dạy dỗ và tin tưởng.
VIII.
SATAN.
Giáo phái Mormon dạy rằng
Chúa Giê-xu là con trưởng thuộc linh của Đức Chúa Trời, nhưng Satan là con thứ
hai của Đức Chúa Trời - vậy Chúa Giê-xu và Satan là anh em. Trước khi tạo dựng
thế gian, Đức Chúa Trời đã soạn một chương trình cứu rỗi cho con người trên đất
trong tương lai. Chương trình này cho con người ý chí tự do, cho phép mỗi người
được chọn lựa có tiếp nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời hay không. Sau đó Đức
Chúa Trời tìm kiếm một Đấng Cứu Chuộc để thực hiện chương trình của Ngài. Chúa
Giê-xu và Satan đều tình nguyện đứng ra đảm nhận, nhưng Satan đề nghị Đức Chúa
Trời thay đổi kế hoạch là bỏ đi ý chí tự do mà ban sự cứu rỗi cho tất cả mọi
người. Vì Satan thách thức quyền lực của Đức Chúa Trời và không chịu ăn năn,
nên nó bị đuổi khỏi thiên đàng với một phần ba thiên sứ hiện diện tại đó. Chúa
Giê-xu được cho làm Đấng Cứu Chuộc vì Ngài chấp nhận toàn bộ chương trình của Đức
Chúa Trời.
Satan và các tà linh theo nó
bị nguyền rủa không bao giờ được có thân xác thuộc thể. Không thành người được,
thì nó không thể tiến trên con đường trở thành một Đức Chúa Trời, vì làm Đức
Chúa Trời thì phải mang thân thể con người trước đã (xem phần dưới).
IX.
LOÀI NGƯỜI.
TIỀN HIỆN
HỮU.
Dù Kinh
Thánh rõ ràng đặt sự khởi đầu của con người vào ngày thứ sáu sáng thế của Đức
Chúa Trời. “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài… Ngài dựng
nên người nam cùng người nữ” (Sáng thế ký 1:26-31). Nhưng giáo phái
Mormon tin rằng tất cả mọi người trước đó đều hiện hữu ở dạng thần linh. Như đã
nói ở trên, Chúa Giê-xu là con thần linh đầu tiên của Đức Chúa Trời (A-đam) và
vợ ngài là Ê-va, Satan là con thứ hai, và sau đó là nhiều con cái thần linh
khác - bao gồm tất cả những người đã từng sống, và sẽ sống trên đất. Mỗi người
con thần linh như thế đều được ban cho ý chí tự do, và thế là một phần ba nổi
loạn với Satan, và bị tước mất cơ hội mang lấy hình người. Những ai quyết định
theo Chúa Giê-xu thì được Đức Chúa Trời ban cho thân xác con người.
Khi các
linh hồn đó nhận được thân xác trên đất, thì được gán cho một cái “màn
lãng quên” để không còn nhớ cuộc đời thần linh trước kia của mình nữa.
Như thế có nghĩa là con người sẽ phải sử dụng ý chí tự do của mình để quyết định
làm lành hay làm ác. Nhưng đối với những ai quyết định làm lành, thì được hứa
ban cho nhiều điều kỳ diệu, như chúng ta sẽ thấy.
X. KHẢ
NĂNG TRỞ THÀNH ĐỨC CHÚA TRỜI.
Chúng
ta đã biết giáo lý Mormon nói rằng, Đức Chúa Trời xưa kia cũng là con người bằng
cách trưng dẫn lời của Hội Trưởng Lorenzo Snow. Thế nhưng chúng ta chỉ mới xét
có một phần của câu trích dẫn:“Con người ngày nay ra sao, Đức Chúa Trời ngày
xưa cũng như vậy”. Thật ra câu này còn tiếp tục cho thấy giáo phái
Mormon tin như thế nào về khả năng của con người: “Con người ngày nay
ra sao, Đức Chúa Trời ngày xưa cũng như vậy; như Đức Chúa Trời ngày nay ra sao,
con người mai sau cũng có thể như vậy”.
Từ câu trích dẫn này chúng ta thấy rằng con
người có khả năng trở thành một Đức Chúa Trời. Thần tánh là phần thưởng cho những
ai theo Đức Chúa Trời hết lòng ở thế gian này.
XI. TẦM
QUAN TRỌNG CỦA GIA ĐÌNH.
Còn một
yếu tố quan trọng khác mà một tín đồ Mormon muốn trở thành Đức Chúa Trời phải
có - người đó phải có vợ (nhiều vợ). Nếu người đó làm đủ số việc lành, làm trọn
nhiệm vụ của mình với giáo hội, và thực hiện “lễ cưới thiêng liêng” với
vợ, thì hội đồng các thần sẽ chỉ định người đó làm Chúa Trời của một hành tinh
mới, giống như trái đất, mà người đó và vợ (hay các bà vợ) của mình sẽ sanh con
đẻ cái ở đó. Nếu không có vợ, người đó sẽ không thể cung cấp dân số cho hành
tinh mới được, do đó gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với tín đồ Mormon.
Kinh
thánh dạy cho con dân của Đức Chúa Trời: “Ai không cưới vợ thì chăm lo
việc Chúa, tìm phương cho Chúa đẹp lòng” (I Cô-rinh-tô 7:32b).
XII. ĐA
THÊ.
Tháng 7
năm 1843, Joseph Smith hô hào là đã nhận được một khải thị mới nói rằng đàn ông
phải có nhiều vợ và hầu thiếp. Khải thị này hẳn là vợ ông, bà EMormona Smith,
khó lòng chấp nhận - cho nên ông đã kèm theo đó một khải thị đặc biệt dành cho
vợ mình:
“Và nữ
tôi tớ của ta, EMormona Smith, phải chấp nhận mọi điều đã phán truyền cho tôi tớ
ta là Joseph... Nhưng nếu nàng không chịu vâng theo mệnh lệnh này thì sẽ bị hủy
diệt, Chúa phán như vậy.”
Joseph
Smith cứ thế mà lần lượt có đến 27 bà vợ.
Kinh
thánh dạy:“Người giám mục (chấp sự, trưởng lão) là chồng chỉ một vợ mà thôi” (I
Ti-mô-thê 3:2,12, Tít 1:6).
Dù khải
thị này được xem là một “giao ước mới và trường cửu”, nhưng sự can thiệp của
chính phủ đặt tình trạng đa thê ngoài vòng pháp luật buộc họ phải thay đổi chiến
lược, và giáo lý đa thê được chính thức bãi bỏ năm 1890 bởi Hội Trưởng Wilford
Woodruff. Tuy nhiên, tình trạng đa thê vẫn tiếp diễn vì Hội Trưởng James
Fielding Smith lại tin theo giáo lý này vào năm 1906, và lời dạy này của Joseph
Smith vẫn còn được lưu giữ trong thánh thư Mormon (Giáo Lý và Giao Ước 132).
Đa thê
là một giáo lý quan trọng của giáo phái Mormon, vì đó là phương cách để đạt tới
sự kết quả trọn vẹn nhất trong đời sau. Vì họ tin rằng Đức Chúa Trời cũng có
nhiều vợ, nên người tín đồ MORMON nhiệt thành mong muốn trở thành Chúa Trời
trên hành tinh của chính mình trong đời sau, cũng phải có nhiều vợ, để anh ta sẽ
có con đàn cháu đống và cai trị với các bà vợ của mình.
Ngày nay ở Mỹ có 30000-50000 người theo chế độ
đa thê. Tuy nhiên trong khi trung ương của giáo phái Mormon đã bãi bỏ chế độ
này, thì phần lớn tín đồ thuộc các chi hội vẫn cứ tin lời dạy của Joseph Smith
là trường cửu.
XIII. TỘI
LỖI.
Một vấn
đề quan trọng của thần học Mormon là tội lỗi. A-đam (tức là Đức Chúa Trời) cần
phải phạm tội, vì nếu không lấy trái cấm trong vườn Eđen thì ông bà sẽ không thể
nào nhận được xác phàm. Chỉ khi trở thành loài người thì A-đam, Ê-va và dòng
dõi mới bắt đầu con đường hướng đến sự thăng hoa, và sinh ra những đứa con phàm
tục. Vì vậy họ dạy rằng A-đam và Ê-va vui mừng khi phạm tội. Thế nhưng Kinh
Thánh thì không bao giờ nói tội lỗi của A-đam và Ê-va là cớ để vui mừng. Trái lại,
tội lỗi làm phân cách Đức Chúa Trời với con người, khiến đàn ông, đàn bà và cả
muôn loài đều lo sợ, chịu rủa sả, mang lại sự đau buồn và khó nhọc, thay vì là
một lý do để vui mừng.
XIV. CỨU
RỖI.
Tín lý
thứ ba của Mormon chép rằng:
“Chúng
tôi tin rằng nhờ sự chuộc tội của Chúa Giê-xu mà cả loài người sẽ được cứu, bởi
sự vâng theo luật pháp và điều răn của Cơ đốc giáo”.
Tín lý
thứ tư giải thích các điều răn ấy là gì:
“Chúng tôi tin rằng các nguyên tắc và điều răn
hàng đầu của Cơ đốc giáo là: Thứ nhất, đức tin nơi Chúa Giê-xu; thứ hai, ăn
năn; thứ ba, báp tem chìm dưới nước để được tha tội; thứ tư; đặt tay để nhận
lãnh Thánh Linh”.
Dù các
điều trên có những câu phù hợp với Cơ đốc giáo của Kinh Thánh, nhưng khi xem
xét kỹ cách giải thích của giáo phái Mormon thì chúng ta thấy nhiều điều quan
trọng xa rời với Kinh Thánh:
1. Công
việc của Chúa Giê-xu trên cây thập tự không đủ để cứu ai cả. Chỉ bằng cách vâng
theo “luật pháp và các điều răn của Cơ đốc giáo” thì mới được
cứu. Vậy sự cứu rỗi tùy thuộc vào nỗ lực của con người chớ không chỉ lệ thuộc
vào sự chết của Chúa Giê-xu. Điều này rõ ràng đi ngược với sự dạy dỗ của Kinh
Thánh:
“Vả, ấy
là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh
em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu
cho không ai khoe mình” (Êphêsô 2:8-9)
2. Sự
tha tội đòi hỏi phải được một thầy tư tế giáo phái Mormon làm phép báp tem cho.
Nếu không chịu phép báp têm thì không thể được cứu. Vậy, theo giáo lý Mormon,
tên cướp trên thập tự giá bên cạnh Chúa Giê-xu ngày ấy không được vào thiên
đàng ngay, dù Chúa Giê-xu có phán “hôm nay ngươi sẽ được ở với Ta trong
nơi Barađi” (Luca 23:43). Trái lại, anh ta phải vào thế giới thần
linh, nơi đó anh ta sẽ phải học và tiếp nhận Tin lành của Chúa Giê-xu. Tuy
nhiên không thể nào làm báp tem trong thế giới thần linh được, vì thế nên phải
có ai đó trong thế gian chịu làm báp tem thay cho người ấy. Việc làm báp tem
cho người chết là một lễ nghi phổ biến của giáo phái MORMON, nhưng Kinh Thánh
không có nơi nào truyền dạy điều đó (Phaolô có nhắc đến tục lệ này vào thời
ông, trong I Cô-rinh-tô 15:29, nhưng chỉ là để minh chứng cho một điểm khác.
Ông không dạy điều đó là đúng hay sai. Thế nhưng nếu đó đúng là một tín lý của
Cơ đốc giáo thì hẳn phải được dạy rõ ràng trong Tân Ước).
Chúng
ta cũng nên nhớ rằng giáo phái Mormon dùng chữ “cứu rỗi” theo ba cách:
1. Cứu
rỗi toàn cầu - họ tin rằng tất cả mọi người sẽ được cứu (dù vẫn có một hình thức
sửa phạt nào đó cho những người cực kỳ gian ác).
2. Cứu
rỗi cá nhân - những người theo giáo phái Mormon có thể được tiếp nhận vào Nước
Trời, nơi Đức Chúa Trời đang trị vì (xem phần tiếp theo).
3. Cứu
rỗi hoàn toàn - đối với những tín đồ Mormon tận tụy và trung tín nhất, thì khả
năng sẽ được làm Đức Chúa Trời trong đời sau.
Dù Kinh Thánh nói rõ ràng đến hai, và chỉ hai nơi để người ta đến sau khi
chết - Thiên đàng và Địa ngục -, nhưng giáo phái Mormon thì tin có bốn nơi:
1. Địa Ngục.
Đây là nơi dành cho những
kẻ gian ác nhất trên đất, cho Satan và một phần ba con cái Đức Chúa Trời (các
con thần linh của Đức Chúa Trời đã nổi loạn và đi theo Satan). Mormon không dám
nhắc tới Địa ngục, mà thích gọi là “nơi tối tăm bên ngoài”. Trái với sự dạy dỗ
của Kinh Thánh, họ cho rằng hình phạt ở đây không phải đời đời. Sau một khoảng
thời gian nào đó, người bị hình phạt ở đây có thể đi từ Địa ngục vào Âm phủ
(Telestrial Kingdom) - bậc thấp nhất của ba từng trời Mormon.
2. Âm Phủ.
Đây là từng trời thấp nhất,
dành cho những kẻ ngoại đạo chối bỏ Tin lành.
3. Địa Đàng.
Từng trời thứ hai, dành
cho Cơ đốc nhân và những tín đồ các tôn giáo khác -những người không theo giáo
phái Mormon.
4. Thiên Đàng.
Đây là từng trời cao nhất
và là nơi Đức Chúa Trời ngự, tự nó lại chia làm ba phần. Phần cao nhất dành cho
những ai đã được đóng ấn bằng“lễ cưới thiêng liêng” ở đền thờ giáo
phái Mormon trên đất. Những người này sẽ trở thành Đức Chúa Trời và sẽ cai trị
một hành tinh cùng với gia đình mình.
KẾT LUẬN.
Ngày nay Mormon thường
dông dài kể lể những điểm giống nhau giữa Cơ đốc giáo chân chính với giáo phái
Mormon. Họ hay trưng dẫn (và trưng dẫn sai) Kinh Thánh và Sách Mormon để giải
thích các giáo lý của họ. Nếu có thể, họ cố không nhắc tới những giáo lý tương
phản nhất và khác biệt nhất với Kinh Thánh. Dẫu thế, Cơ đốc nhân chúng ta cũng
phải biết rõ giáo phái Mormon thực sự tin những gì.
Một vấn đề tối quan trọng
khi nghiên cứu giáo phái Mormon là sự khải thị thiên thượng. Giáo phái Mormon dựa
vào hai niềm tin về khải thị thiên thượng:
1. Kinh Thánh với tư cách
là nguồn khải thị thiên thượng thì không đáng tin cậy, vì nó đã bị sai lạc và dịch
sai.
2. Joseph Smith dịch Sách
Mormon với sự giúp đỡ trực tiếp của Đức Chúa Trời, do đó nó hoàn toàn vô ngộ,
và do đó là nguồn khải thị Thiên thượng đáng tin cậy.
Do đó tín đồ Mormon tin rằng
chỉ có họ mới có được sự hiểu biết đúng đắn về lời Đức Chúa Trời. Họ quyết định
theo sự dạy dỗ của Joseph Smith, người đã tìm ra và dịch Sách Mormon bằng cách
dùng các kỹ thuật thần bí mà trước kia ông đã sử dụng để tìm kho báu. Họ theo
Sách Mormon, là sách dù được xem là được dịch bởi Đức Chúa Trời, nhưng chứa đựng
4000 chỗ sai và đã phải hiệu đính trong các ấn bản sau.
Trái lại, Cơ đốc nhân
chúng ta theo Kinh Thánh, là sách vô cùng vượt trội hơn sách Mormon. Đây là vài
lý do cho thấy tại sao:
1. Kinh Thánh được thần cảm
của Đức Chúa Trời, và do đó chứa đựng tất cả những gì chúng ta cần biết. Kinh
Thánh không cần phải hiệu đính:
“Cả Kinh Thánh đều là bởi
Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong
sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để
làm mọi việc lành” (II
Ti-mô-thê 3:16,17).
2. Trong khi Joseph Smith
áp đặt ý muốn của mình trên khải thị (ví dụ lời tiên tri nói rằng vợ ông sẽ bị
hư mất nếu không chịu chấp nhận cho ông lấy nhiều vợ khác), thì các tác giả
Kinh Thánh không dạy ý riêng mình, mà chỉ bày tỏ ý chỉ của Đức Chúa Trời. Lời Đức
Chúa Trời đã được bày tỏ cho các trước giả Kinh Thánh, không phải bằng những
phương pháp thần bí hay bằng kính vàng, mà là bởi sự dẫn dắt của Đức Thánh
Linh:
“Vì chẳng hề có lời tiên
tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động
mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời” (II Phi-e-rơ 1:21).
3. Trong khi khảo cổ học
đã không chứng minh được gì cho Sách MORMON, thì lại thường xuyên xác nhận Kinh
Thánh là đúng. Một trong số nhiều ví dụ đó là việc khám phá ra đường hầm mà vua
Ê-xê-chia đã cho xây để dẫn nước vào Giêrusalem từ khe suối Gi-hôn (II Các Vua
20:20).
4. Trong khi Sách Mormon
thay đổi nhiều chỗ trong vòng có vài năm, Kinh Thánh thì không thế. Việc khám
phá ra các văn bản Biển Chết năm 1947 chỉ ra rằng Kinh Thánh đã được bảo tồn
chính xác. Ví dụ, trước khám phá này, bản xưa nhất của sách Ê-sai là vào khoảng
năm 900 SC. Trong những cuộn sách Biển Chết có trọn một cuộn sách Ê-sai có niên
đại 100-200 TC. Khi so sánh hai bản này với nhau, người ta thấy phần này của
Kinh Thánh đã được lưu truyền hết sức chính xác trong suốt thời gian hơn 1000
năm.
“Một chấm một nét trong luật
pháp cũng không qua đi được cho đến khi mọi sự được trọn” (Ma-thi-ơ 5:18b).
Sau khi đã xác định Kinh Thánh là nguồn khải thị duy nhất đúng, chính
xác, và đáng tin cậy, thì chúng ta thấy những khác biệt giữa giáo lý Mormon với
Cơ đốc giáo Kinh Thánh rất rõ ràng. Bản sau đây minh họa một số khác biệt chủ yếu:
GIÁO
LÝ
|
MORMON NÓI
|
KINH
THÁNH PHÁN
|
ĐỨC
CHÚA TRỜI
|
Có nhiều ĐCT, và nhiều
thế hệ ĐCT.
|
Chỉ có một ĐCT (Ê-sai
43:11; 44:6; 45:5; 45:21).
|
ĐCT xưa vốn là người được
trở thành Chúa Trời.
|
ĐCT luôn là ĐCT (Thi
90:2), Ngài không hề thay đổi (Thi 102:7; Mal 3:6).
|
|
Đức Chúa Trời có thân
xác.
|
ĐCT là thần linh (Giăng
4:24) và vô hình (I Ti 1:7), Ngài không có thân xác.
|
|
Đức Chúa Trời là A-đam.
|
ĐCT dựng nên A-đam (Sáng
1:7).
|
|
Đức Chúa Cha là cha thuộc
thể của Chúa Giê-xu, và là chồng của bà Mari.
|
Chúa Giê-xu được thọ
thai bởi Thánh Linh (Math 1:18).
|
|
CHÚA
GIÊ-XU
|
Trước khi sinh ra trong
xác thịt, Chúa Giê-xu đã được sinh ra, là con thần linh của Đức Chúa Cha với
một trong các vợ của Ngài.
|
Con Đức Chúa Trời đã hiện
hữu từ trước muôn đời cùng với Đức Chúa Cha (Giăng 1:1; Cô-lô-se 1:17; Khải
22:13).
|
SA-TAN
|
Satan là em thần linh của
Chúa Giê-xu.
|
Chúa Giê-xu là Con Một của
ĐCT (Giăng 3:16).
|
CON
NGƯỜI
|
Con người hiện hữu từ
trước dưới dạng thần linh trước khi thế gian được dựng nên.
|
Con người được tạo dựng
bởi ĐCT vào ngày thứ 6 sáng thế (Sáng 1:26-31). KT không nói gì đến việc con
người hiện hữu từ trước dưới dạng thần linh.
|
Con người trở thành Chúa
Trời của một hành tinh khác.
|
Cơ đốc nhân sẽ thờ phượng
ĐCT (Khải 14:1-3), và sống chung với nhau trong sự hiện diện của Ngài ở Thiên
đàng (Khải 21-22).
|
|
Có nhiều vợ là một phần
quan trọng để được tôn vinh trong đời sau.
|
Trên thiên đàng, sẽ
không có cưới gả (Math 22:30). Kiểu mẫu của KT là một chồng một vợ (Sáng
2:24; I Ti 3:12; Tít 1:6).
|
|
CỨU
RỖI
|
Công việc của Chúa
Giê-xu trên thập tự giá không đủ để cứu rỗi. Sự cứu rỗi còn tùy thuộc vào
công việc của mỗi người.
|
Cứu rỗi chỉ bởi đức tin,
chớ không bởi việc làm (Êph 2:8,9).
|
Tất cả đều sẽ được cứu
(ngoại trừ, một số ít người thật gian ác).
|
Tất cả những ai không
vâng phục Tin lành đều sẽ bị hình phạt đời đời (I Tês 1:8-9).
|
|
Có ba từng trời, và một
nơi hình phạt tạm thời gọi là “nơi tăm tối bên ngoài”.
|
Có hai nơi để con người
đến sau khi chết: Thiên đàng và địa ngục (Luca 16:19-31; Mat 25:31-46).
|
Tín đồ Mormon tin những điều rất khác với Kinh thánh. Họ có giáo lý khác
về Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu, con người, sự cứu rỗi và tương lai. Như thế,
chúng ta cần lắng nghe lời của thánh Phaolô trong Ga-la-ti 1:8,9:
“Nhưng nếu có ai, hoặc chính chúng tôi, hoặc thiên sứ trên trời, truyền
cho anh em một tin lành nào khác với Tin lành chúng tôi đã truyền cho anh em,
thì người ấy đáng bị anathem! Tôi đã nói rồi, nay lại nói lần nữa: Nếu ai truyền
cho anh em một tin lành nào khác với Tin lành anh em đã nhận, thì người ấy đáng
bị anathem!”
Chúng ta đừng quên rằng
giáo phái MORMON không phải chỉ là một hệ phái có nhiều giáo lý khác với Kinh
thánh, nhưng giáo phái MORMON cũng đã chối bỏ Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời,
chối bỏ địa vị cao cả độc tôn của Đức Chúa Trời, và Tin lành của Chúa Giê-xu, rồi
đem thay thế bằng một “tin lành” chẳng phải là Tin lành (Ga-la-ti 1:7) và dẫn
người tin đến sự hư mất đời đời. Giáo phái MORMON là tà giáo.
Ms J.S.
Nguồn: cdnvn.com
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
* Quý độc giả có thể để lại nhận xét bằng tiếng Việt (có dấu) hoặc tiếng Anh. Vui lòng gửi kèm thông tin (tên, SĐT hoặc email) để chúng tôi tiện liên hệ. Nhận xét được Tổ Quản trị - Ban Truyền thông HTTL Tân Nghĩa kiểm tra trước khi hiển thị.
* Chúng tôi sẽ phản hồi lại nhận xét trên website hoặc thông qua email duy nhất của Ban Truyền thông: tannghiamedia@gmail.com