Đức
Chúa Giê-xu sáng lập Cơ Đốc Giáo hay Ki-tô Giáo vào khoảng năm 26 ở xứ Do Thái.
Đức Chúa Giê-xu giáng sinh vào khoảng năm 4 TCN, tại làng Bết-lê-hem xứ Giu-đê.
Trú quán của Ngài là làng Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê. Đức Chúa Giê-xu khởi hành
truyền bá Phúc Âm trong xứ Ga-li-lê lúc Ngài vào khoảng 30 tuổi.
Các tôn giáo trên thế gian dạy con người phải
tự mình làm các điều lành thánh thiện tu tâm dưỡng tánh để tự cứu mình hay để
được siêu thoát hoặc thi hành nghiêm túc các giới cấm của luật đạo để được lên
thiên đàng. Trái lại, Cơ Đốc Giáo khẳng định là loài người chỉ có khả năng phạm
tội, nhưng không có khả năng chuộc tội hay có thể tự cứu mình bằng các việc làm
nhân đức do chính mình làm ra. Cơ Đốc Giáo theo lời phán dạy của Đức Chúa
Giê-xu tin rằng Đức Chúa Trời đã ban Con Một của Ngài là Đức Chúa Giê-xu xuống
thế làm người, chịu chết trên thập tự “để
đem thân mình mà trừ bỏ luật pháp của các điều răn”(Ê-phê-sô
2:15) của giao ước cũ, đặng cứu chuộc
loài người bằng cách đổ huyết ra để thành lập giao ước mới (Lu-ca 22:20).
Giao ước mới này thay thế giao ước cũ lỗi thời đã bị đào thải (Hy-bá 8:13
BDY). Kinh Thánh cho biết sự cứu chuộc của Đức Chúa Giê-xu là một sự ban cho
nhưng không từ Đức Chúa Trời cho những ai sẵn lòng chấp nhận sự ban cho này như
lời tiên tri Ê-sai dự ngôn:“Hỡi những kẻ nào khát, hãy đến suối nước! Và người nào không có
tiền bạc, hãy đến, mua mà ăn! Hãy đến, mua rượu và sữa mà không cần tiền, không
đòi giá” (Ê-sai 55:1).
Cuộc đời của Đức Chúa Giê-xu được ghi lại trong
bốn sách Phúc Âm Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng. Phúc Âm Ma-thi-ơ cho biết gia
phả của Đức Chúa Giê-xu thuộc dòng dõi của vua Đa-vít và sanh bởi nữ đồng trinh
Ma-ri (Ma-thi-ơ
1:1,23). Hai điều này đã thật sự xảy ra
làm ứng nghiệm lời tiên tri, “Có
một chồi sẽ nứt từ gốc
Y-sai, một nhánh từ rễ nó sẽ ra trái” và “Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai và sanh một con trai”(Ê-sai
11:1 & 7:14). Phúc Âm Ma-thi-ơ trưng dẫn khoảng 16 lần các lời tiên tri nói về
Đấng Mê-si ở Cựu Ước đã được ứng nghiệm trong Đức Chúa Giê-xu ở Tân Ước để
thuyết phục người Do Thái chấp nhận Đức Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si của mình.
Phúc Âm Mác bày tỏ Đức Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời và Đấng Cứu Thế của
nhân loại. Phúc Âm Lu-ca bày tỏ Đức Chúa Giê-xu là Con của Đấng Rất Cao, Ngài
sẽ ngồi trên ngôi Đa-vít trị vì đời đời, nước Ngài vô cùng. Phúc Âm Giăng bày
tỏ Đức Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời Ngôi Hai nhập thế làm người, đem sự cứu
chuộc đến cho nhân loại.
Trong thời gian ba năm thi hành chức vụ của
Đấng Cứu Thế, Đức Chúa Giê-xu làm nhiều dấu kỳ phép lạ như hóa nước thành rượu,
kêu người chết sống lại, chữa lành bệnh tật, đuổi quỉ, đi trên mặt biển…
để chứng tỏ Ngài là Đấng Mê-si hay Đấng Christ, đã đến trong thế gian để làm
ứng nghiệm các lời tiên tri trong Cựu Ước. Ngoài các dấu kỳ phép lạ mà Ngài đã
làm để chứng tỏ Ngài là Đấng cứu thế, Đức Chúa Giê-xu cũng công khai xác nhận
Ngài là Đấng Mê-si hay Đấng Christ, như Ngài đã bày tỏ với người đàn bà Sa-ma-ri: “Ta, người đang nói với ngươi
đây, chính là Đấng đó” (Giăng
4:26). Ngoài các dấu kỳ phép lạ mà
Ngài đã làm, Đức Chúa Giê-xu còn giảng dạy là mỗi người phải hết lòng yêu mến
Đức Chúa Trời và thương yêu kẻ lân cận như mình. Ngài kêu gọi mọi người phải
thay đổi lòng mình, ăn năn và tin nhận Ngài để được cứu rỗi và thừa hưởng ân
phước của nước Trời.
Đọc qua các Phúc âm của Đức Chúa Giê-xu, người
ta không thấy Ngài bảo các môn đệ “hãy
tự mình thắp đuốc mà đi tìm chân lý”. Nhưng Ngài phán: “Ta
là đường đi, chân lý và sự
sống, ta đến chẳng để xét đoán thế gian, nhưng để cứu chuộc” (Giăng
12:47 & 14:6).
Sau 3 năm giảng dạy về nước Trời, dân Do Thái tin theo Ngài rất đông, làm cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo xem Ngài là một mối đe dọa cho Do Thái Giáo và nền an ninh của quốc gia Do Thái. Nên họ đã bắt Ngài đem đến trường án vội vã kết tội Ngài đã phạm thượng, vì đã xưng mình là Con của Đức Chúa Trời, rồi họ đóng đinh Ngài trên thập tự giá cho đến chết.
Sau 3 năm giảng dạy về nước Trời, dân Do Thái tin theo Ngài rất đông, làm cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo xem Ngài là một mối đe dọa cho Do Thái Giáo và nền an ninh của quốc gia Do Thái. Nên họ đã bắt Ngài đem đến trường án vội vã kết tội Ngài đã phạm thượng, vì đã xưng mình là Con của Đức Chúa Trời, rồi họ đóng đinh Ngài trên thập tự giá cho đến chết.
Các sách Phúc Âm kể tiếp: Sau khi người ta đã
đem Ngài chôn trong một hang đá, đến ngày thứ ba, Đức Chúa Giê-xu sống lại để
chứng tỏ sự chết chuộc tội của Ngài trên thập tự giá đã được Đức Chúa Trời hoàn
toàn chấp nhận, kế hoạch cứu chuộc tội lỗi của nhân loại đã hoàn tất. Sau khi
sống lại, Ngài hiện ra với các môn đồ trong 40 ngày để phán dạy họ những việc
liên hệ đến nước Đức Chúa Trời. Sau đó, Đức Chúa Giê-xu thăng thiên trước sự
chứng kiến của các môn đồ Ngài, như đã ghi trong sách Công vụ các Sứ đồ 1: 9-11
là sau khi nói chuyện với các môn đồ lần chót xong, Đức Chúa Giê-xu được cất
lên trời. Các môn đồ ngó theo cho đến khi có một đám mây đến tiếp Ngài khuất
đi, không thấy nữa. Đoạn, có hai thiên sứ mặc áo trắng hiện đến bảo các môn đồ
rằng: “Giê-xu này đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ
trở lại như cách các ngươi đã thấy Ngài lên trời vậy”. Theo như lời thiên sứ thì Đức Chúa Giê-xu sẽ trở lại thế gian này
để đánh bại Sa-tan cùng quyền lực của sự tối tăm để thành lậïp vương quốc của
Ngài. Ngài sẽ ngồi trên ngôi Đa-vít trị vì đời đời, nước Ngài vô cùng. Bấy giờ “họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày,
lấy giáo rèn lưỡi liềm. Nước này chẳng còn giá gươm lên nghịch cùng nước khác,
người ta chẳng còn tập sự chiến tranh. Muông sói sẽ ở với chiên con, beo nằm
với dê con; bò con, sư tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con
trẻ sẽ dắt chúng nó đi. Bò cái sẽ ăn với gấu; các con nhỏ chúng nó nằm chung,
sư tử ăn cỏ khô như bò. Trẻ con đương bú sẽ chơi kề rắn hổ mang, trẻ con thôi
bú sẽ thò tay vào hang rắn lục. Nó chẳng làm hại, chẳng giết ai” (Ê-sai 2:4 & 11:6-8).
Sau khi Đức Chúa Giê-xu thăng thiên khoảng 7
ngày, đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đồ của Chúa Cứu Thế đang nhóm lại để ăn lễ
Ngũ Tuần theo truyền thống của Do Thái Giáo thì “thình lình, có tiếng từ trời
đến như tiếng gió thổi ào ào, đầy khắp nhà môn đồ ngồi. Các môn đồ thấy lưỡi
rời rạc từng cái một, như lưỡi bằng lửa hiện ra, đậu trên mỗi người. Hết thảy
đều được đầy dẫy Đức
Thánh Linh” (Công vụ 2:2-4)
Sau khi nhận được Đức Thánh Linh, các môn đồ
của Đức Chúa Giê-xu đi ra rao giảng cho mọi người biết Đức Chúa Giê-xu là Đấng
Cứu Thế đã chết trên thập tự giá để chuộc tội cho nhân loại. Nếu ai bằng lòng
tin nhận Đức Chúa Giê-xu và sự chết của Ngài trên thập tự giá là để đền tội cho
mình thì người đó được cứu chuộc bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Như Sứ đồ
Phi-e-rơ xác định trước Toà Công Luận Do Thái rằng: “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng
nào khác; vì ở dưới
trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà
được cứu” (Công vụ 4:12). Sứ đồ Phao lô vốn là một thành viên của môn phái Pha-ri-si, từng
hăng say bắt bớ và sát hại người tin theo Đức Chúa Giê-xu. Nhưng sau khi trở
lại tin nhận Chúa Giê-xu làm cứu Chúa mình và trở thành một sứ đồ lòng đầy
nhiệt huyết rao giảng Tin Lành, ông tuyên bố: “Thật vậy, tôi không hổ thẹn về
Tin Lành đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin” (Rô-ma 1:16).
Dù Cơ Đốc Giáo bị Do Thái Giáo bắt bớ từ năm 35
đến năm 44, và sau đó bị các Hoàng Đế La Mã bách hại từ năm 64 đến năm 312, Cơ
Đốc Giáo vẫn bành trướng mạnh trong đế quốc La Mã. Vào thế kỷ II, Cơ Đốc Giáo
đã trở thành một tôn giáo có tổ chức hoàn bị với các giáo lý hẳn hoi. Đến thế
kỷ IV, Cơ Đốc Giáo đã lan tràn đến Tây Ban Nha, Ba-Tư và miền đông Ấn Độ.
Đến cuối thế kỷ IV, các Hội Thánh Cơ Đốc Miền
Đông nằm trong lãnh thổ của Đông Đế Quốc La Mã gồm có bốn giáo khu. Bốn giáo
khu đó là Constantinople (Thổ Nhĩ Kỳ), An-ti-ốt (Syria), Giê-ru-sa-lem
(Do-Thái) và Alexandria (Ai-cập). Các giáo khu này trực thuộc Đông Giáo Hội,
đặt dưới quyền quản trị của các Giáo Trưởng, tòa thánh đặt ở Constantinople,
Thổ Nhĩ Kỳ. Các Hội Thánh Cơ Đốc Miền Tây nằm trong lãnh thổ của Tây Đế Quốc La
Mã trực thuộc Giáo Khu Rô-ma, cũng gọi làTây Giáo Hội. Tây Giáo Hội đặt dưới
quyền quản trị của một Giám Mục, tòa thánh ở La Mã, Ý Đại Lợi. Đông Giáo Hội và
Tây Giáo Hội có nhiều bất đồng về giáo lý và quyền hạn giữa chức Giám mục ở La
Mã và các Giáo trưởng của Đông Giáo Hội. Sự việc này là mầm móng gây ra mối
chia rẽ giữa Đông Giáo Hội và Tây Giáo Hội hồi thế kỷ V. Đến giữa thế kỷ XI,
tức vào khoảng năm 1054, Tây Giáo Hội và Đông Giáo Hội tổ chức một buổi họp để
thảo luận tìm cách san bằng các dị biệt giữa hai giáo hội. Sau nhiều ngày thảo
luận, hai giáo hội không tìm được một sự đồng thuận nào mà còn gây thêm nhiều
mâu thuẫn, nên hai giáo hội đã chính thức dứt phép thông công lẫn nhau, rồi xem
nhau như thù nghịch từ dạo đó cho đến nay.
Năm 1517, tu sĩ Martin Luther phát khởi phong
trào Cải Chánh Giáo Hội Công Giáo La Mã. Martin Luther cho rằng: "Sự cứu chuộc là nhờ ân điển bởi đức tin vào công lao của
Đức Chúa Giê-xu mà thôi, tín hữu không cần phải làm thêm việc lành thán thiện
để được cứu”. Điều Martin Luther tin tưởng trái với giáo lý của Công Giáo La Mã, “sự cứu chuộc là nhờ ân điển
bởi đức tin vào công lao cứu chuộc của Đức Chúa Giê-xu và việc làm thánh thiện của tín hữu”. Vì giáo lý cứu rỗi khác
biệt với Công Giáo La Mã, nên Martin Luther và nhóm người theo phái Cải Chánh
của Martin Luther phải tách rời khỏi Công Giáo La Mã để thành lập Giáo Hội Tin
Lành Lutheran. Cũng trong thế kỷ 16 này và các thế kỷ kế tiếp, một số Giáo Hội
Cải Chánh khác được thành lập như: Reformed and Presbyterian, Anglican
Communion, Báp-tít, Anh Em (Quakers), Congregationalists, Giám Lý, Ngũ Tuần,
Disciple of Christ, Unitarians, Universalists, Evangelicals, Fundamentalists…
Theo truyền thống, từ ngày có cuộc cải chánh,
Giáo Hội Công Giáo La Mã xem các Giáo Hội Tin Lành Cải Chánh là “Thệ Phản” hay “Đạo Lạc”. Nhưng đến năm 1962, Công Đồng Va-ti-can II của Công Giáo La Mã ra
quyết nghị chấm dứt việc xem Tin Lành Cải Chánh là “Thệ Phản” hay “Đạo Lạc,”
nhưng là “Anh Em Tách Rời”.
Năm 1969, các nhà thần đạo của Giáo Hội Công
Giáo La Mã và Tin Lành Lutheran ngồi lại để bắt đầu thảo luận tìm cách thống
nhất giáo lý cứu rỗi. Sau 30 năm thảo luận, đến năm 1999, hai Giáo Hội đã đồng
ý xác định giáo lý cứu rỗi cho hai Giáo Hội là: “Chỉ nhờ ân điển bởi đức tin
vào công lao cứu chuộc của Đức Ki-tô, chớ không phải bởi công trạng nào của
Ki-tô hữu”. Đây, chính là giáo lý cứu
rỗi mà Martin Luther đã đòi hỏi nơi Giáo Hội Công Giáo La Mã trong cuộc Cải
Chánh hồi thế kỷ XVI. Đây cũng chính là giáo lý cứu rỗi mà Sứ đồ Phao-lô đã xác
định trong Kinh Thánh, “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó
không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải
bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình” (Ê-phê-sô 2:8).
Tạp chí Life, xuất bản tháng 12 năm 1999 cho
biết: Dầu phải trải qua các cuộc bắt bớ của Do Thái Giáo và các cơn bách hại
của các Hoàng Đế La Mã, Cơ Đốc Giáo đã trở thành một tôn giáo lớn nhất thế
giới, có số tín hữu vào khoảng trên hai tỷ người, với khoảng 2.000 hệ phái.
Nguồn: cdnvn.com
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
* Quý độc giả có thể để lại nhận xét bằng tiếng Việt (có dấu) hoặc tiếng Anh. Vui lòng gửi kèm thông tin (tên, SĐT hoặc email) để chúng tôi tiện liên hệ. Nhận xét được Tổ Quản trị - Ban Truyền thông HTTL Tân Nghĩa kiểm tra trước khi hiển thị.
* Chúng tôi sẽ phản hồi lại nhận xét trên website hoặc thông qua email duy nhất của Ban Truyền thông: tannghiamedia@gmail.com